La Vi yêu cầu nhân viên cửa hàng tăng ca để ép quả trẩu thành dầu trẩu màu vàng tươi và trong suốt.
Người Trung Quốc cổ đại đã đi trước thế giới hàng ngàn năm trong việc phát triển công dụng của dầu trẩu. Họ không chỉ sử dụng dầu trẩu để chế tạo xe cộ, tàu thuyền và đồ nội thất, mà còn dùng nó để làm thuốc trừ sâu, xà phòng, ô giấy dầu, vải dầu, cũng như dùng để điều trị viêm nhiễm và bỏng.
Nếu bị nước thánh làm bỏng, có lẽ có thể dùng nó.
Sau khi có được dầu trẩu, La Vi lại cho quản gia đến cửa hàng của Huggins mua một miếng nhung đen lớn, mang về trường và thức trắng đêm để may áo mưa và áo choàng.
La Vi rất cẩn thận khi chế tạo những vật dụng mà cô muốn sử dụng.
Phải mất bốn đến năm tiếng để một lớp dầu trẩu khô, vì vậy cô đã sử dụng đèn dầu để đẩy nhanh quá trình và chỉ bôi được ba lớp.
Trước khi kịp nhận ra thì trời lại sáng.
La Vi ngủ gật rồi giấu áo mưa vào trong tủ quần áo.
Ban ngày cô còn phải đi học, sau giờ học lại phải ra tiểu viện lén luyện tập ma pháp cao cấp. Luyện xong ma pháp, cô lại phải may áo mưa. Có thể đoán được mấy ngày tới cô sẽ không ngủ ngon được.
Trước khi trời tối, Troy trở về trong tình trạng kiệt sức, trên lưng đeo một cái túi.
“Mau xem, đây có phải là loại đất mà cô nhắc đến không?” Anh ta vội vàng hỏi.
La Vi mở túi ra, lấy ra một cục đất, màu sắc, kết cấu, độ kết dính đều gần giống đất cao lanh.
Cô bỏ cục đất sét vào bát rồi đổ nước lạnh vào. Đất sét trắng xám nhanh chóng tan trong bát nước.
“Đúng là loại đất tôi cần.”
“Nhưng tôi vẫn còn thiếu một thứ, đá sứ.”
Phương Tây luôn có đất cao lanh và trữ lượng của nó rất lớn, nhưng mãi thế kỷ 18 vì họ mới có thể nung được đồ gốm sứ bằng cách thêm đá sứ.
Đá sứ là một trong những nguyên liệu thô quan trọng để sản xuất gốm sứ và thủy tinh. Vì thế giới có thể làm ra thủy tinh, nên chắc chắn phải có mỏ đá sứ.
Đá sứ có thể được tổng hợp nhân tạo, nhưng thời gian của cô không còn nhiều.
La Vi mô tả đặc điểm và phương pháp nhận dạng đá sứ cho Troy, yêu cầu anh ta tìm được đá sứ càng sớm càng tốt.
“Chờ đã.” Troy nhận được lệnh, định quay người đi nhưng La Vi đã gọi lại: “Ngươi tìm thấy đất cao lanh ở đâu?”
“Trên một ngọn núi ở bờ biển phía tây.”
“Nó cách đây bao xa?”
“Hơn một nghìn cây số.”
Hơn một nghìn km, chẳng phải nghĩa là bằng một phần tư Tây Nguyên sao?
“Ngươi chạy hơn một nghìn cây số trong một đêm?” La Vi tỏ vẻ kinh ngạc.
Troy gật đầu: “Griffin bay nhanh lắm.”
Quả nhiên, giữ Troy lại là quyết định đúng đắn. Mạng sống và sự nghiệp của cô đều không thể thiếu khỏi anh ta.
“Đi tìm thạch anh phong hóa ở bờ biển phía tây đi.” La Vi từ bỏ ý định tự mình tìm kiếm, nghiêm túc nói: “Mang về nhiều một chút. Có vài viên trông giống thôi. Phải cẩn thận phân biệt.”
“Tôi hiểu rồi.”
Troy nhảy lên lưng con Griffin và bay về phía tây.
La Vi ngâm cao lanh mang về vào một cái thùng lớn, lọc bỏ tạp chất, rồi gọi tất cả mọi người trong nhà ra.
Đừng bao giờ tin tưởng người khác sẽ giữ bí mặt để bảo toàn tính mạng cho mình trừ khi điều đó liên quan đến tính mạng của họ.
La Vi yêu cầu xây một lò nung cao và làm khuôn ở tiểu viện, cô cũng lấy giấy da ra để vẽ sơ đồ quy trình thực nghiệm.
Cô sử dụng phương pháp điện phân không khí để tạo ra axit nitric, sau đó sử dụng axit nitric để tạo ra axit oxalic, tiếp theo sử dụng axit oxalic để tạo ra axit clohydric, và cuối cùng sử dụng axit clohydric và canxi cacbonat để tạo ra carbon dioxide.
Quá trình này có thể rất đơn giản, và axit clohydric có thể thu được trực tiếp bằng cách điện phân nước muối, nhưng muối ở thế giới này quá đắt, và có giới hạn về số lượng mua cá nhân, nên cô không thể mua nhiều muối được.
Tuy dùng không khí chế tạo có chút phức tạp, nhưng ít nhất cũng tiết kiệm được tiền. Hơn nữa, cô có nhiều công đoạn có thể thay thế bằng ma thuật và ma văn, vậy nên không cần phải chuẩn bị nhiều thiết bị thí nghiệm. Trong điều kiện thực tế cũng không phải là không thể.
Ngày hôm sau khi La Vi dùng ma pháp trận hạ nhiệt độ để tạo ra đá khô, Troy cũng quay lại với một giỏ đá sứ lớn.
Có đá sứ, răng nanh và lưỡi hái của Tử thần đều có thể làm ra.
Trong thần thoại Hy Lạp, Kronos có một chiếc liềm đen làm từ đá đen mà Gaia mang về từ sâu dưới lòng đất, và ông đã dùng chiếc liềm này để giết cha mình là Uranus.
Kronos là vua của các Titan, người đã lãnh đạo Thời kỳ Hoàng kim của thần thoại Hy Lạp và là cha của Zeus, vua của các vị thần. Ông là một vị thần đầy quyền năng và điên cuồng.
Cũng chính là vị thần mà La Vi muốn hóa trang thành, nhưng vì thế giới này không có thần thoại Hy Lạp nên cô sợ rằng hình ảnh Kronos sẽ không khiến dân chúng sợ hãi, nên cô đã thay đổi một chút.
Cô biến lưỡi hái đá đen thành lưỡi hái xương trắng, cắm những chiếc răng nanh làm bằng gốm vào miệng, đeo một cặp kính áp tròng màu đỏ làm từ nhựa cây trong suốt, quanh thân bốc cháy ngọn lửa ma trơi và giấu vài cục đá khô vào quần áo để tạo hiệu ứng thị giác.
La Vi muốn kết hợp hình ảnh của Kronos, vua của các Titan và Chronos, thần thời gian và thần chết, sứ giả của địa ngục, để tạo ra một vị thần.
Cô đã nghĩ ra một cái tên: “Kevikros, vị thần vĩ đại và đen tối của cái chết và thời gian, vị thần nắm giữ linh hồn con người và sáu cõi luân hồi.” Cái tên càng dài thì nghe càng oai.
Thời gian trôi qua thật nhanh khi La Vi bận rộn chuẩn bị, chớp mắt đã đến ngày 1 tháng 11, ngày Thần giáng thế.
Khi bình minh lên, tiếng chuông nhà thờ vang lên, báo hiệu ngày Thần giáng thế đã đến.
La Vi cất chiếc áo mưa đã được quét dầu trẩu vào một chiếc túi vải, rồi bỏ hết đồ đạc quý giá vào một túi tiền chắc chắn, cùng với chiếc áo mưa giấu trong chiếc váy phồng rộng thùng thình.
Cô ngồi trước đèn dầu, thoa sáp ong và mỹ phẩm đã chuẩn bị từ trước lên mặt, dùng chiếc cọ nhỏ tự làm cẩn thận tán đều sáp lên mặt, lông mày, mắt và môi, đảm bảo dầu và sáp thấm vào từng tấc da.
Trông vẫn có vẻ hơi giả, nhưng may mắn thay, lễ rửa tội bằng nước thánh của học viện bắt đầu lúc bảy giờ sáng, khi trời vẫn còn tối và mọi thứ đều mờ ảo, nên khuôn mặt cô không quá rõ ràng.
6:40, tiếng cửa mở và tiếng cười đùa bên ngoài liên tiếp vang lên. La Vi cầm đũa phép lên, thử lại phép Biến Hình trước gương lần cuối. Phép thuật này thi triển vô cùng thành công.
Cô nhét cây đũa phép và chiếc mai rùa vào tay áo, hai tay dặt trước bụng, đẩy cửa ra và bình tĩnh bước ra ngoài.
Quảng trường kiếm thuật chật kín người. Hơn một nghìn học sinh và sáu mươi giáo viên của học viện đều đứng ở đây. Họ vây quanh bức tượng khổng lồ ở giữa quảng trường, nghiêm trang đặt tay phải lên ngực trái.
Tượng có hai mặt, một mặt trước và một mặt sau. Mặt trước tượng trưng cho thần mặt trời ấm áp, mặt sau tượng trưng cho thần mặt trăng lạnh lẽo. Cả hai ngồi cạnh nhau ở vị trí tối cao của thần linh và được người đời công nhận là vua của các vị thần.
Hiệu trưởng của Trường Ma thuật Shiria đứng dưới chân bức tượng, trên tay cầm một chiếc chén thánh bằng bạc; bên cạnh ông là giám mục của thần điện Shiria, trên tay cầm một chiếc bình cổ dài cao bằng một đứa trẻ.
Với hai người này làm trung tâm, dưới bức tượng là các giáo viên của Học viện Ma thuật Shiria ở một bên và các tăng lữ của thần điện ở bên kia. Hơn một trăm cặp mắt như diều hâu đang nhìn chằm chằm vào các học viên dưới sân khấu. Một khi có bất kỳ chuyển động bất thường nào, đều sẽ bị phát hiện ngay lập tức.
Các học sinh dưới khán đài thậm chí còn không dám thở mạnh, cúi đầu ngoan ngoãn xếp hàng, chờ được thanh tẩy trong dòng nước thánh do đầu ngón tay viện trưởng vẩy lên.
You cannot copy content of this page
Bình luận