Ra đến cổng lớn, Trì Tinh Dao hít một hơi thật sâu. So với không khí ngột ngạt trong nhà, bên ngoài quả thật dễ chịu hơn nhiều.
Vì đã bán xe, cô chỉ có thể đẩy ra chiếc xe điện cũ kỹ trong kho, đã lâu không dùng đến. Cô lao đi như bay, còn “chó sói nhỏ” thì ngồi chồm hỗm trên bàn đạp xe, ánh mắt âm u, vẻ mặt đầy uất ức.
Chẳng mấy chốc, Trì Tinh Dao đã đến vùng ngoại ô Ninh Kinh. Ở đây có một nhà máy than bỏ hoang, địa thế cực kỳ lý tưởng: lưng tựa núi lớn, phía trước là vùng đất trống rộng rãi, có một con đường làng nhỏ chạy xuyên qua. Hơn nữa, nơi này rất ít người qua lại, gần đó chỉ có một ngôi làng nhỏ với khoảng hơn ba mươi hộ dân, phần lớn là người già yếu—một ngôi làng gần như bị bỏ lại phía sau. Chính vì vậy, ngôi làng đã cho thuê hàng chục mẫu đất.
Trì Tinh Dao chọn nơi này không phải ngẫu nhiên, bởi trong dãy núi trước mắt, có một mỏ than chưa từng bị phát hiện. Sau tận thế, thời tiết trở nên cực đoan: mùa đông lạnh thấu xương, nhiệt độ ngoài trời thường xuyên xuống âm 40–50 độ; còn mùa hè thì nóng như thiêu, nhiệt độ lên đến 50 độ khiến mặt đất như bị nung chảy. Mất điện, mất nước. Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy, rất nhiều người không thể sống sót qua mùa đông.
Nhưng nếu có thể khai thác được mỏ than, mọi chuyện sẽ khác. Ở kiếp trước, nơi này từng bị một nhóm người sống sót chiếm giữ, họ xây dựng nên căn cứ Ninh Dương. Vị trí hẻo lánh, cách xa khu dân cư, lại sở hữu nguồn tài nguyên trời ban—Ninh Dương nhanh chóng trở thành căn cứ lớn nhất ở thành phố Ninh Kinh.
Một nơi tốt như vậy, Trì Tinh Dao nhất định phải chiếm trước.
“Cô bé, thật sự muốn thuê chỗ này à?”—một giọng nói vang lên.
Trưởng thôn làng Ninh Hiệp nhìn Trì Tinh Dao, muốn nói gì đó nhưng rồi lại thôi.
Trì Tinh Dao gật đầu xác nhận.
“Vậy cô định trồng gì?”
“Trồng ớt.”
“Trưởng thôn, tôi muốn thuê luôn cả nhà máy kia. Ông tính xem hết bao nhiêu tiền.” Trì Tinh Dao chỉ về phía nhà máy bỏ hoang nằm trong thung lũng. Mặc dù bị bỏ hoang, bên trong vẫn còn nhiều công trình, riêng khu nhà ở đã có mấy tòa. Dù sau này không dùng để ở, cô vẫn có thể tận dụng để nuôi trồng, chăn nuôi hoặc làm kho chứa.
“Ớt à…” Trưởng thôn chậm rãi nói: “Một năm mười vạn, ký hợp đồng năm năm, trả tiền một lần. Cô bé, đây là năm mươi vạn đấy, cô có trả nổi không?”
Năm mươi mẫu đất cộng với nhà máy, giá thuê mười vạn một năm không hề đắt, tính ra chưa đến hai ngàn một mẫu. Theo lý mà nói, diện tích rộng như vậy, đất thành phố ngày càng khan hiếm, nơi này đáng lẽ phải là miếng bánh béo bở cho các nhà đầu tư tranh giành, sao lại đến lượt Trì Tinh Dao?
Chỉ tiếc rằng, vùng quê nghèo thường sinh ra những người dân khó chiều. Trước Trì Tinh Dao, đã có mấy người đến thuê đất để khởi nghiệp. Họ từng trồng lúa mì, ngô, đậu phộng, khoai tây… Nhưng khi mùa vụ sắp đến, chưa kịp thu hoạch thì bị dân làng kéo nhau đến cướp sạch.
Báo công an. Nhưng trong làng toàn là các ông bà già, ngoài việc thu hồi được một ít nông sản, chẳng thể làm gì họ. Người thuê đất lỗ nặng, đành ngậm ngùi chịu thiệt. Muốn lấy lại tiền thuê đất thì không thể.
Hợp đồng trước đó ký là trả tiền một lần, không hoàn lại, khiến những người thuê đất trước đó khổ sở vô cùng. Tiếp tục trồng thì năm nào cũng lỗ, không trồng thì đất bỏ hoang, tiền thuê vẫn phải trả. Nơi này chẳng khác gì một cái đầm lầy. Chính vì thế, Trì Tinh Dao mới có thể vớ được món hời này.
“Giao dịch thành công, ký hợp đồng đi.”
Trì Tinh Dao dứt khoát đồng ý. Trưởng thôn nhìn cô như nhìn một con gà béo sắp bị làm thịt, cười toe toét không ngậm được miệng. Sau khi thanh toán và ký hợp đồng, trưởng thôn vui vẻ rời đi, mặt mày hớn hở.
Trì Tinh Dao thì phấn khởi, cưỡi chiếc xe điện nhỏ chạy thẳng đến chợ đầu mối ở thành phố Ninh Kinh để mua vật liệu. “Chó sói nhỏ” ngồi phía trước xe, ánh mắt đầy thương cảm nhìn cô.
“Trồng ớt à… chờ mà lỗ chết đi.”
Tại chợ đầu mối, Trì Tinh Dao chọn loại hàng rào chống leo tốt nhất trên thị trường, cùng với dây thép gai loại to và đắt nhất. Chuyện chuyên môn thì phải giao cho người chuyên nghiệp—cô thuê hơn chục công nhân. Chỉ trong một buổi chiều đã rào kín toàn bộ 50 mẫu đất. Hàng rào được nâng lên cao 5 mét theo yêu cầu của Trì Tinh Dao, dây thép gai cũng sắc bén vô cùng.
Cô đi một vòng kiểm tra, rất hài lòng, rồi thanh toán ngay. Vài chục vạn nữa lại bay mất. Tính cả ngày hôm nay, Trì Tinh Dao đã tiêu hơn một trăm vạn. Nhưng với cô, mọi thứ đều xứng đáng.
Lúc này, trưởng thôn thong thả đi tới, tay chắp sau lưng, vẻ mặt nhàn nhã.
Nhìn hàng rào dây thép cao mấy mét, trưởng thôn không khỏi kinh ngạc. “Cô bé, đúng là chịu chi thật đấy.”
Trưởng thôn nói đầy ẩn ý. Trước đây cũng từng có người thuê đất rồi dựng hàng rào, nhưng chi phí tăng cao, người thuê không kiếm được bao nhiêu. Đáng sợ nhất là đám dân làng hung hãn như sói, hàng rào dây thép chẳng ngăn nổi họ. Cuối cùng, người thuê lỗ càng thêm lỗ.
Trì Tinh Dao chỉ cười nhạt. Cô sẽ không bao giờ nói ra mục đích thật sự của mình.
“Trưởng thôn, vòng ngoài tôi đã rào xong rồi. Ngày mai tôi muốn sửa sang lại khu nhà máy, ông thấy sao?”
“Không vấn đề gì, cứ sửa thoải mái. Nếu thiếu nhân công thì cứ lên làng tìm, trả tiền công là được mà.” Trưởng thôn hào phóng đáp.
“Cứ sửa đi, cứ xây đi.” Dù cô có làm gì, đồ đạc cũng không mang đi được, giống như cái nhà máy bỏ hoang kia. Sửa xong rồi, ông ta còn có thể tháo ra chắc? Dù có để mục nát ở đó, thì cũng là tài sản của làng.
“Được ạ.”
Trì Tinh Dao lễ phép đáp, rồi cùng “chó sói nhỏ” đi thẳng vào khu nhà máy. Trưởng thôn nhìn theo bóng lưng cô, không nhịn được cười. “Thời buổi này, người ngốc thật là nhiều.”
Khu nhà máy. Trì Tinh Dao đi một vòng kiểm tra. Những thứ có thể dùng gần như đã bị dọn sạch. May mà hệ thống điện, mạng vẫn còn, sàn nhà có hệ thống sưởi, phía sau nhà máy còn có một giếng nước khoan rất sâu.
Nước suối trong vắt, ngọt lành—về nguồn nước thì sau này không cần lo nữa. Giờ chỉ còn thiếu nguồn điện.
Kết nối với đường dây điện của làng thì nhà máy vẫn có thể dùng điện, nhưng Trì Tinh Dao không định dựa vào đó. Cô dự tính ngày mai sẽ đi mua thiết bị phát điện cỡ lớn. Sau năm năm lăn lộn trong thời kỳ tận thế, Trì Tinh Dao hiểu rõ một điều: không thể dựa vào bất kỳ ai, chỉ có thứ nằm trong tay mình mới là đáng tin cậy nhất.
Đêm đó, cô tạm nghỉ lại trong khu nhà máy—còn tám ngày nữa là tận thế sẽ ập đến.
Sáng hôm sau, cô lại đến chợ đầu mối. Trì Tinh Dao phải biến nơi trú ẩn của mình thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Cô mua đủ mọi thứ cô nghĩ đến để dự trữ: thép tấm dày, cửa sắt, lưới thép hình vòng, bẫy sắt cỡ lớn, mũi tên, máy phát điện công suất lớn, dây điện, bóng đèn, ổ cắm… Bất cứ thứ gì cô nghĩ ra, đều mua một ít.
Ngày hôm đó, cô lại tiêu hơn một trăm vạn. Đến chiều, vài chiếc xe tải lớn theo cô về đến vùng ngoại ô, công nhân bắt đầu dỡ hàng xuống bãi đất trống. Sau khi hẹn thời gian lắp đặt vào ngày mai, trời cũng bắt đầu tối.
“Gừ gừ–“
Lúc này, “chó sói nhỏ” cắn lấy ống quần của Trì Tinh Dao, ánh mắt đầy uất ức. Chạy theo cả ngày, đến một ngụm nước cũng không được uống—người phụ nữ này sao mà keo kiệt thế?
Trì Tinh Dao cúi đầu, khó hiểu hỏi: “Tiểu Nam, sao thế?”
“Chó sói nhỏ”: “!!!”
Người phụ nữ này… gọi linh tinh cái gì vậy? Hắn tên là Mục Dật Nam. “Tiểu Nam” cái gì chứ, nghe mà muốn chết!
“Chó sói nhỏ” âm thầm lẩm bẩm trong lòng, vẫn cắn chặt lấy ống quần của Trì Tinh Dao, nhất quyết không buông.
Đói rồi, cho ăn đi.
You cannot copy content of this page
Bình luận